Phỏng vấn Đức Cha Marcelo Sanchez Sorondo, Chưởng ấn Hàn Lâm Viện các Khoa học
xã hội của Tòa Thánh
Trong hai ngày mùng 2-3 tháng 11 năm 2013
hội nghị về tệ nạn nộ lệ mới đã diễn ra trong nội thành Vaticăng. Hội nghị do Hàn
Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội cùng tổ chức với Liên đoàn quốc tế các Hiệp
hội bác sĩ công giáo.
Theo ước tính của Tổ chức Lao Động Quốc Tế trong các
năm 2002-2010 trên thế giới đã có khoảng 21 triệu nạn nhân của nạn cưỡng bách lao
động, trong đó cũng bao gồm cả nạn khai thác tình dục. Mỗi năm có khoảng 2 triệu người
là nạn nhân của kỹ nghệ buôn bán tình dục, trong đó 60% là các thiếu nữ, trong khi
nạn buôn cơ phận người chiếm 11%.
Buôn bán người là một sinh hoạt tội phạm
bao gồm việc bắt, bắt cóc và tuyển lựa cũng như chuyên chở, chuyển rời, tiếp đón một
hay nhiều người với các phương tiện bất hợp pháp, nhằm mục đích khai thác các nạn
nhân.
Tệ nạn buôn bán nô lệ đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người. Hàng
bao ngàn năm trước công nguyên các Kim tự tháp bên Ai Cập đã do xương máu của các
nô lệ xây lên. Trong mọi đế quốc thời xa xưa khắp nơi trên thế giới đều đã có hoạt
động buôn bán nô lệ, nổi tiếng như dưới thời đế quốc Hy Lạp và Roma. Tại Roma hồi
thế kỷ thứ I đã có 1 triệu nô lệ sinh sống, và rất nhiều đền đài dinh thự là do xương
máu và mồ hội nước mắt của các nô lệ xây dựng, điển hình như Hý trường Colosseo do
hoàng đế Tito khánh thành năm 80 sau công nguyên.
Vào thế kỷ XVI sau khi ông
Cristoforo Colombo khám phá ra châu Mỹ, người dân các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,
Hòa Lan, Pháp và Anh bắt đầu di cư sang Mỹ châu lập nghiệp. Nhu cầu trồng cây trong
các đồn điền bông ngày càng cần nhiều nhân công. Số nhân công thuộc các chủng tộc
địa phương không đủ nữa nên bắt đầu nảy sinh ra phong trào nhập cảng nhân công từ
các nước khác, đặc biệt là người nô lệ thuộc các nước mạn tây phi châu. Hàng chục
triệu người Mỹ da đen ngày nay là con cháu những người nô lệ Phi châu bị bán sang
Mỹ trong các thế kỷ XVI-XVIII. Người ta ước đoán có đến hàng chục triệu người bị bắt
và bán làm nô lệ như thế. Không thể tả hết được các ngược đãi và khổ đau mà người
nô lệ phải gánh chịu trong cuộc sống, từ khi bị bắt, bị xiềng xích mang xuống tầu,
rồi bán cho các đại điền chủ da trắng khi đến Mỹ châu.
Năm 1770 sau một loạt
các canh tân trên thế giới tại Pháp, Đan Mạch và Anh quốc người ta thấy nảy sinh ra
các phong trào bài trừ nô lệ, đòi thay đổi các luật hình sự, bỏ luật treo cổ và thay
đổi cách đối xử với các người bị bệnh tâm thần. Các nhà trí thức như Voltaire, Wesley
và Rousseau đã góp phần đáng kể vào kiểu suy tư mới này. Vào thế kỷ XIX nhiều nước
đã thành công trong việc giành độc lập bên Mỹ quyết định bỏ chế độ nô lệ. Chẳng hạn
như Brasil năm 1822, Bolivia năm 1825, Anh quốc năm 1833, Pháp năm 1848 và sau cùng
Hoa Kỳ năm 1865. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ luật năm 1910 vẫn cấm hôn nhân giữa những người
khác chủng tộc, và có các biện pháp trục xuất các phụ nữ có các hành động vô luân.
Vì thế 70% các phụ nữ bị bắt khi vượt biên giới bị rơi vào bẫy của hoạt động mại dâm.
Bắt đầu từ thập niên 1920 trở đi tại Hoa Kỳ việc buôn người không được coi như lá
một vấn đề xã hội, ít ra cho tới năm 1990.
Chỉ với việc công bố Bản Tuyên
Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948 nạn nô lệ cũng như việc buôn người mới
bị bãi bỏ trên toàn thế giới. Nhưng đó đó chỉ là lý thuyết. Trên thực tế nạn nô lệ
và buôn người vẫn tiếp tục tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhiều khi rất tinh
vi và cũng không nhất thiết bắt buộc các nạn nhân phải vượt biên ra nước ngoài. Đó
là trường hợp nộ lệ của nạn cho vay nặng lãi; nạn lao động đen hằng năm đem lại số
tiền lời khổng lồ 31 tỷ mỹ kim. Bên cạnh đó có hàng triệu nạn nhân nô lệ của kỹ nghệ
tình dục, nạn trẻ em lao động liên lụy tới 245 triệu trẻ em vị thành niên phải làm
việc lam lũ mỗi ngày. Ngoài ra, còn có nạn buôn bán trẻ em vị thành niên. Theo số
liệu của Liên Hiệp Quốc năm 2003 có tới 1,3 triệu trẻ em bị bán làm nô lệ tình dục.
Thêm vào đó nạn buôn người còn ẩn nấp cả đàng sau phong trào quốc tế nhận con nuôi
nữa. Số tiền buôn bán người năm 2004 lên tới 9 tỷ mỹ kim, và đạt kỷ lục năm 2005 với
31,6 tỷ mỹ kim.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng
vấn Đức Cha Marcelo Sanchez Sorondo, Chưởng ấn Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học
xã hội về hội nghị này.
Hỏi: Thưa Đức Cha, lý do nào đã
khiến cho Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội cùng tổ chức hội nghị này với
Liên đoàn quốc tế các Hiệp Hội bác sĩ công giáo?
Đáp:
Nguồn gốc của hội nghị này là Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã biết đến các vấn đề
này. Ngay khi vừa mới được bầu làm Giáo Hoàng Đức Thánh Cha đã tiếp kiến các nhân
viên của Hàn Làm Viện các Khoa học xã hội của Tòa Thánh. Trong thư gửi cám ơn ngài
các cố vấn của Hàn Lâm Viện đã hỏi Đức Thánh Cha xem ngài có muốn chúng tôi làm một
điều gì đặc biệt không. Đức Thánh Cha đã trả lời ngay lập tức với cùng bì thư ấy như
sau: ”Marcelo, tôi muốn người ta nghiên cứu vấn đề các hình thức nô lệ mới và nạn
buôn bán người, bao gồm cả việc buôn bán cơ phận người nữa”. Và như thế Hàn Lâm Viện
đã bắt đầu làm việc. Nhưng chúng tôi đã thấy cần phải lôi cuốn cả các bác sĩ vào việc
nghiên cứu này, và chúng tôi đã mời các bác sĩ công giáo, bởi vì bác sĩ José María
Simón de Castelví, chủ tịch Liên đoàn các Hiệp hội bác sĩ công giáo đã muốn cộng tác,
thế rồi cả Hàn Lâm viện Khoa học nữa, vì các giải pháp có thể có tính cách khoa học.
Và thế là đã nảy sinh ra sáng kiến tổ chức hội nghị nói trên.
Hỏi: Thế
hiện tượng buôn bán người hay nạn nô lệ tân thời đã được phân
tích đưới các khía cạnh nào, thưa Đức Cha?
Đáp: Nó đã được phân
tích đưới mọi khía cạnh. Điều mà chúng tôi muốn đó là tìm hiểu tầm rộng lớn của hiện
tượng này, mà người ta đã từng biết tới một chút, nhưng chúng tôi muốn có các dữ kiện
chính xác hơn. Chúng tôi cũng muốn đạt được môt ý tưởng chung cho Giáo Hội và cho
các các Hội Đồng Giám Mục. Có các Hội Đồng Giám Mục, chẳng hạn như Hội Đồng Giám Muc
Anh quốc và Hội Đồng Giám Mục Guatemala đã soạn thảo vài tài liệu liên quan tới vấn
đề này, nhưng tôi tin rằng Giáo Hội, trong tổng thể của mình, vẫn chưa ý thức đủ về
vấn đề này. Thế rồi chúng tôi cũng muốn tìm ra các hướng đi cụ thể. Chúng tôi đã hỏi
tất cả các tham dự viên, các quan sát viên cũng như các tường trình viên gửi cho chúng
tôi các đề nghị cụ thể và giờ đây chúng tôi đang lượng định các đề nghị đó. Có một
đề nghị rất hay của một bác sĩ gợi ý là giữ lại yếu tố di truyền DNA của các trẻ em
bị mất tích, và của cha mẹ các em đã tố cáo rằng các em mất tích rồi đối chiếu chúng
với nhau. Thật ra điều đầu tiên mà những người bắt cóc các em làm là xóa các dấu tay
của các em.
Hỏi: Chúng ta biết là trong nguồn gốc của tệ nạn buôn bán người
có nạn nghèo túng cùng cực, chiến tranh, các cuộc xung khắc trong nước vv... Và có
một phần của thế giới khai thác các tình trạng này, có đúng thế không
thưa Đức Cha?
Đáp: Vâng đúng thế, và chúng tôi sẽ nói lên điều
này. Bắt đầu từ các nước có luật lệ chơi hai chiều: một đàng thì tổ chức họp nói tới
sự sống con người, đàng khác thì cũng chính các cơ cấu và tổ chức của họ không muốn
nhìn vấn đề này, hay tệ hơn họ còn tạo thuận tiện cho nạn buôn bán người nữa. Chẳng
hạn chúng ta lấy thí dụ như những gì đã xảy ra tại Bosnia liên lụy tới một vài người
Mỹ, và không phải chỉ có người Mỹ, trong nạn buôn bán nữ nô lệ. Việc này đã bị một
phụ nữ Mỹ tố cáo và sau đó bà này bị mất việc làm. Chính vì thế, chúng tôi thấy thật
là thích hợp lôi cuốn các bác sĩ nhập cuộc nghiên cứu, bởi vì cả họ cũng bị liên lụy,
các cơ cấu đáng lý ra phải bênh vực con người lại bị liên lụy nhiều nhất trong các
tệ nạn này.
Như vậy một đàng chúng ta đang đứng trước một tình hình thê thảm,
và người ta không muốn nói đến vấn đề này, không muốn xem xét chuyện gì xảy ra; đàng
khác người ta lại chơi trò nước đôi. Thế rồi, còn có các nước thừa nhận mại dâm như
là một công việc: các nước này cũng tạo ra thị trường buôn người.
Thí dụ bên
Cộng hòa liên bang Đức vấn đề này thật là kinh khủng. Nhưng không phải chỉ có Đức,
mà tại nhiều nước Bắc âu cũng thế. Như vậy, một đàng Nhà nước nói rằng cần phải can
thiệp, trong khi đàng khác thì Nhà nước lại kiếm lợi nhuận từ tệ nạn buôn người này.
Ngay từ khi còn là Tổng Giám Mục Buenos Aires Đức Thánh Cha Phanxicô đã trực giác
được vấn đề xã hội nghiêm trọng đụng tới linh hồn của thế giới xã hội, đụng tới các
Khoa học xã hội. Chúng tôi đã ngạc nhiên vì đã không hiểu nó trước.
Hỏi:
Thưa Đức Cha, Giáo Hội sẽ làm gì với các tài liệu và kết qủa của hội nghị về
nạn nô lệ mới này?
Đáp: Chúng tôi muốn triệu tập hội nghị lần thứ
nhất và sẽ triệu tập nhiều hội nghị khác nữa để nghiên cứu vấn đề này. Nhưng đây đã
là bước đầu tiên đáp ứng các nguyện vọng của Đức Thánh Cha. Chúng tôi sẽ làm công
việc này tốt chừng nào có thể. Chúng tôi không yêu sách là đã tìm ra giải pháp cho
vấn đề, nhưng ít nhất nó là một bước tiến tới. Chúng tôi đã hỏi Tòa Thánh, là tại
sao lại chưa ủng hộ biên bản của Liên Hiệp Quốc về việc phòng ngừa, hủy bỏ và truy
nã nạn buôn người, đặc biệt là phụ nữ và các trẻ em, nhưng chúng tôi chưa nhận được
câu trả lời. Điều này có nghĩa là chưa có một chính sách chung trong việc phòng chống
và bài trừ tệ nạn buôn người. Chắc chắn là Đức Thánh Cha muốn cho tất cả các điều
này được rõ ràng. Cần phải ca ngợi Đức Thánh Cha, vì với sự nhạy cảm của người Đức
Thánh Cha đã đưa chúng tôi, là các nhân viên của Hàn Lâm Viện thường thảo luận các
vấn đề trừu tượng, vào con đường cụ thể của thực tại toàn cầu có các khía cạnh kinh
khủng, trong đó có sự thờ ơ như Đức Thánh Cha đã nói, khi viếng thăm các người tị
nạn tại đảo Lampedusa nam Italia.
Con người bị bán đi nhưng không ai thèm
ngó ngàng gì đến bản vị con người. Điều duy nhất mà người ta chú ý là tiền. Còn tệ
hơn nữa, người ta dùng con người để làm tiền, như người ta đã làm đối với các người
nô lệ xưa kia, bị bắt và bị bán như đồ vật. Và trong một nghĩa nào đó tệ nạn này ngày
nay còn tệ hại hơn xưa kia rất nhiều! Xét vì mức độ văn minh mà xã hội loài người
đã đạt được hiện nay. Nhất là nếu chúng ta duyệt xét vấn đề nô lệ tình dục, trong
đó các bé trai bé gái là nạn nhân. Đây là một trong các điều thê thảm nhất của thế
giới toàn cầu, cùng với nạn di cư, mà các hậu qủa chúng ta đã trông thấy tại đảo Lampedusa
rồi.