Từ hơn hai năm qua chúng ta đã tìm hiểu các bí tích như phương thế Thiên Chúa và Giáo
Hội dùng để ban các ơn thánh cần thiết cho cuộc sống Kitô.
Đối với các bạn
đã không theo dõi nục Thần Học Kinh Thánh bắt đầu từ tháng 4 năm 1991, chúng tôi xin
mạn phép tóm tắt lộ trình tìm hiểu. Chúng ta đã bắt đầu với các vấn đề khổ đau, tội
lỗi, sự dữ và các hậu qủa tiêu cực của chúng trong cuộc sống con người, trong đó có
cái chết.
Tiếp đến chúng ta đã trả lời câu hỏi ai là Đấng cứu thoát chúng
ta khỏi tình trạng sống khốn khổ và tuyệt vọng này, bằng cách tìm hiểu Thiên Chúa
Ba Ngôi, Đấng giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi sự dữ và cái chết, và trao ban cuộc
sống mới cho con người. Để thực hiện chương trình cứu độ đó Thiên Chúa Cha đã cho
Con Một Người là Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người, chịu khổ nạn, chết, sống lại và
lên Trời. Đức Giêsu Kitô đã rao giảng Tin Mừng cứu rỗi, tuyển chọn các cộng sự viên
là các Tông Đồ và các môn đệ và thành lập Giáo Hội để các vị tiếp tục công trình cứu
độ. Chúng ta đã tìm hiểu bản chất, sứ mệnh và gương mặt của Giáo Hội và các bí tích
như các phương thế trao ban các ơn thánh cần thiết cho cuộc sống đức tin, đức cậy
và đức mến của tín hữu.
Ngoài các bí tích ra, còn có nhiều phương thế khác
giúp Kitô hữu củng cố và vun trồng cuộc sống của mình. Bên cạnh việc siêng năng kiên
trì đọc suy gẫm lời Chúa là Thánh Kinh và lãnh nhận các Bí tích, còn có một phương
thế hữu hiệu khác là cầu nguyện. Đây là đề tài chúng ta sẽ cùng nhau khai triển trong
loạt bài mới này.
Khi nói tới cầu nguyện, chúng ta thường đồng hóa cầu nguyện
với việc xin ơn này ơn nọ, mà quên rằng cầu nguyện là ý niệm rất rộng rãi bao gồm
nhiều hành động và nội dung khác nhau như chúng ta sẽ thấy. Trước hết chúng ta tìm
hiểu việc cầu nguyện trong Thánh Kinh.
Thánh Kinh ghi lại nhiều lời cầu nguyện
và kể lại nhiều chuyện liên quan tới việc cầu nguyện của con người, cũng như dậy cầu
nguyện. Tất cả những điều này đều bình thường và là phần trong kinh nghiệm tôn giáo
của mọi dân tộc. Sự độc đáo của lời cầu nguyện kinh thánh không ở nơi lời cầu nguyện,
nhưng trong việc cầu nguyện ”như thế nào” và ”tại sao” lại cầu nguyện.
Có
thể nói rằng toàn Thánh Kinh nảy sinh từ lời cầu nguyện, hoa trái của thái độ lắng
nghe Thiên Chúa: con người trả lời Thiên Chúa, thảo luận với Người và suy tư trước
mặt Thiên Chúa. Hơn là nói về Thiên Chúa Thánh Kinh nói chuyên với Thiên Chúa và suy
tư trước mặt Thiên Chúa. Lời cầu nguyện xuyên qua toàn lịch sử của dân Israel và nổi
lên tại mọi điểm của trình thuật kinh thánh cựu ước. Điều này cũng có giá trị đối
với Thánh Kinh Tân Ước. Vì thế tìm hiểu đề tài cầu nguyện có nghĩa là lần theo lộ
trình của toàn sách Thánh Kinh. Và hiển nhiên đây là điều không thể làm được trong
khuôn khổ hạn hẹp ở đây. Vì thế những gì trình bầy trong phần đầu ở đây chỉ có tính
cách chấm phá vội vàng, nhưng không hời hợt, và dầu sao đi nữa cũng tạm đủ để làm
nền cho phần hai có tính cách tổng hợp, trong đó có thể nhận ra các cấu trúc thường
hằng chính của lời cầu nguyện. Ngoài ra, việc đọc sách các Thánh Vịnh là tuyển tập
các lời cầu nguyện của dân Do thái, có thể giúp chúng ta hiểu biết và nếm hưởng nội
dung các lời cầu nguyện của dân Do thái. Nó cũng là các lời mà chính Chúa Giêsu Kitô
đã dùng để cầu nguyện, và giờ đây chúng tiếp tục là lời cầu trong kinh nguyện chính
thức của Kitô giáo và của Giáo Hội công giáo.
Nếu chúng ta muốn bước sâu vào
suối nguồn, từ đó lời cầu nguyện kinh thánh tuôn chảy, thành hình, và qua đó tiếp
nhận được tính cách độc đáo của nó, thì phải ngắm nhìn một cách chính xác khung cảnh
thần học và nhân chủng mà nó giả thiết, nghĩa là tương quan giữa Thiên Chúa, con người,
dân Chúa và thế giới. Và đương nhiên đây cũng là điều chúng ta không thể làm được
trong khung cảnh hạn hẹp ở đây. Thật ra, đó là điều chúng ta đã làm trong suốt lộ
trình 22 năm qua của mục Tìm Hiểu Kinh Thánh. Do đó ở đây nhiều điều sẽ được giả thiết
là qúy vị và các bạn thính giả đã biết rồi.
Khi đọc vài chương đầu sách Sáng
Thế, chúng ta nhận ra ngay tương quan của con người với Thiên Chúa: Giavê Thiên Chúa
của Israel là Đấng đã tạo dựng nên vũ trụ, muôn loài muôn vật và là Thiên Chúa duy
nhất. Trong công trình sáng tạo ấy con người là thụ tạo tuyệt vời nhất, vì nó được
tạo dựng nên ”giống hình ảnh” của chính Thiên Chúa. Trong chương 1 sách Sáng Thế sau
khi tả cảnh Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ vạn vật như môi sinh dọn sẵn cho loài người,
tác giả thuộc trường phái Tư Tế viết: ”Thiên Chúa phán: chúng ta hãy làm ra con người
theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim
trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống bò trên mặt đất. Thiên Chúa sáng
tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên
Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,26-27). Chỉ trong mấy câu
ngắn gọn tác giả tư tế cho thấy bản chất và ơn gọi cao qúy của con người là thụ tạo
giống như Thiên Chúa, phản ánh hình ảnh của chính Thiên Chúa, và được quyền làm bá
chủ các thụ tạo khác, bá chủ muôn vật muôn loài. Chính vì con người cao trọng như
vậy nên tác giả thánh vịnh 8 mới chúc tụng Thiên Chúa oai phong, và sung sướng ghi
nhận: ”Chúa cho con người chẳng thua kém thần minh là mấy, ban vinh quang làm mũ triều
thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân”
(Tv 8,6-7).
Trong chương 2 sách Sáng Thế tác giả thuộc trường phái Giavít
dùng lại hình ảnh văn chương bình dân thông dụng trong nền văn chương của các dân
tộc vùng Trung Đông Cổ xưa kia và tả cảnh Thiên Chúa tạo dựng loài người như sau:
”Giavê Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và cho
người trở thành một sinh linh. Rồi Giavê Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Êđen, về
phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra” (St 2,7-8). Thiên Chúa yêu
thương và lưu tâm săn sóc con người nên căn dặn con người phải luôn ý thức mình là
thụ tạo tùy thuộc Người. Ngày nào con người quên đi sự thật ấy và muốn tôn mình làm
Thiên Chúa, ngày ấy con người sẽ phải chết. Đó là ý nghĩa lời Giavê Thiên Chúa căn
dặn con người: ”Giavê đem con người đặt vào vườn Êđen, để cầy cấy và canh giữ đất
đai. Giavê là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: “Hết mọi trái cây trong vườn,
ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn,
vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2,15-17).
”Cây biết
lành biết dữ” là hình ảnh văn chương diễn tả sự toàn tri là đặc tính chỉ duy nhất
Thiên Chúa mới có. Con người là thụ tạo hạn hẹp không thể và không bao giờ toàn tri.
Vì vậy khi muốn toàn tri, con người kiêu căng tôn mình là Thiên Chúa, thay thế Người,
lấy mình làm điểm tham chiếu và tự quyết định mọi sự. Khi đó con người xa rời Thiên
Chúa, rơi vào lầm lạc và phải chết.
Tác giả Giavít còn cho biết Giavê Thiên
Chúa thấy con người cô đơn nên quyết định ”làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó”,
là người nữ. Tác giả Giavít cũng lấy lại một hình ảnh văn chương bình dân của các
dân tộc vùng Trung Đông Cổ, và miêu tả cặp vợ chồng làm thành gia đình nguyên thủy
như sau: ”Giavê là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con
người thiếp đi. Rồi Giavê là Thiên Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, làm
thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói: ”Phen này, đây là
xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút
từ đàn ông ra”. Bởi thế người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai
thành một xương một thịt” (St 2,21-24).
Trong chương 3 soạn giả Giavít tả
cảnh loài người không vâng lệnh truyền của Thiên Chúa nên sa ngã phạm tội, nhưng tác
giả cho thấy tương quan thân tình giữa Thiên Chúa Tạo Hóa và con người là thụ tạo,
khi cho hiểu ngầm rằng hằng ngày Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió hiu hiu thổi
trong ngày để gặp gỡ viếng thăm và nói chuyện với con người. Cuộc đối thoại giữa Thiên
Chúa và con người sau khi con người phạm tội thật thê thảm. Nhưng Thiên Chúa đã lập
tức hứa ban Đấng Cứu Tinh cho nhân loại (St 3,8-19).
Vài văn bản quan trọng
trưng dẫn trên đây có thể giúp chúng ta hiểu tương quan giữa Thiên Chúa và con người,
từ đó có thể rút tỉa ra các nét chính yếu của lời cầu nguyện. Vì tương quan giữa Thiên
Chúa Tạo Hóa và con người là thụ tạo tuyệt vời nhất của Người thân tình và sâu đậm
như thế, nên cầu nguyện trước hết có nghĩa là nói chuyện thân tình với Thiên Chúa,
đối thoại với Người, chúc tụng ngợi khen Người như tác giả thánh Vịnh 8 đã làm: ”Lậy
Giavê là Chúa chúng con, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu” Tv 8,1). Niềm
tin nơi Thiên Chúa Tạo Dựng và nhất là Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tuyển chọn Israel
làm dâng riêng của Người, đã là nguồn gốc của thái độ sống và tất cả mọi lời cầu nguyện
của dân Do thái trong toàn Thánh Kinh, đặc biệt trong sách Thánh Vịnh, là tuyển tập
các lời cầu của dân Do thái.