Israel khẩn cầu Giavê Thiên Chúa, vì là dân riêng của Người
Lần trước chúng ta đã bắt đầu tầm nguyên nguồn gốc của lời cầu nguyện. Nó phát xuất
từ tương quan của con người là thụ tạo với Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đã dựng con
người giống hình ảnh Người. Bản chất và ơn gọi của con người là duy trì nguyên tuyền
hình ảnh đó và sống tương quan thân tình với Thiên Chúa, đối thoại với Người. Chiều
chiều khi gió hiu hiu thổi Thiên Chúa đến vườn Êđen đi dạo và nói chuyện với con người.
Đây là định nghĩa tuyệt diệu đầu tiên của lời cầu nguyện: cầu nguyện là đối thoại,
nói chuyện thân tình với Thiên Chúa.
Nhưng lời cầu nguyện còn phát xuất từ
sự kiện Thiên Chúa chọn dân Do thái làm dân riêng của Người. Thánh Kinh là cuốn sách
kể lại cuộc lựa chọn đó và các hệ lụy của nó trong cuộc sống của dân Do thái. Ơn gọi
của tổ phụ Abraham cho thấy Thiên Chúa chuẩn bị cho Người một dân riêng. Để trở thành
tổ phụ dân riêng Thiên Chúa chọn, Abraham phải ra khỏi khung cảnh mà ông đã sống cho
tới khi đó, như kể trong chương 12 sách Sáng Thế: ”Giavê phán với ông Apram: ”Hãy
rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm
cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được
lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành” (St 12,1-2). Ra khỏi môi trường xã hội
đa thần, ra khỏi vùng đất phì nhiêu, và cuộc sống định cư bảo đảm, để bắt đầu cuộc
sống bán du mục phiêu lưu vô định, nhưng dưới sự hướng dẫn và chở che của Thiên Chúa
duy nhất. Sự dứt khoát từ bỏ đó là cả một hy sinh cao độ. Và Thiên Chúa đổi tên ông
thành Abraham.
Tuy nhiên, những gì ông Abraham phải bỏ bề ngoài chỉ là biểu
tượng cho sự từ bỏ bên trong: từ bỏ chính con người mình, từ bỏ tâm thức con người
trần gian của mình để bước vào trong cái luận lý của Thiên Chúa, nhìn mọi sự với đôi
mắt của Thiên Chúa và suy tư lý luận như Người. Điều Thiên Chúa muốn ông Abraham tử
bỏ là chính cái tôi và tâm thức loài người của ông, hầu hoàn toàn tín thác nơi Thiên
Chúa và chương trình của Người. Nhưng Thiên Chúa củng cố và thanh tẩy đức tin của
tổ phụ Abraham. Ngài hứa ban cho ông có con và dòng dõi đông như sao trên trời như
cát dưới biển, nhưng Abraham và bà Sarah vợ ông đợi mãi cho đến khi tuổi già vẫn không
thấy có con. Tới khi có được Igiaác Thiên Chúa lại thanh luyện đức tin của Abraham
bằng cách xin ông sát tế Igiaác cho Người. Trong tất cả các thử thách và thanh luyện
cam go đó ông luôn sẵn sàng thưa vâng với Thiên Chúa. Nhưng ở đây nữa, Thiên Chúa
không muốn cái chết của Igiaác, mà muốn rằng cái tôi, con người và tâm thức của Abraham
phải hoàn toàn chết đi, để Ngài có thể nhào nắn ông theo như Ngài muốn, và đặc biệt
để ông có thể là tổ phụ của dân riêng Chúa chọn, một dân tin nơi Giavê, kính yêu Ngài,
tín thác nơi Ngài và vâng lời Ngài. Có thể ví cái luận lý của Thiên Chúa là thứ luận
lý của kim tự tháp lật ngược. Điểm tựa của nó là đức tin tín thác, bé tí, vô hình.
Nhưng chính trên điểm vô hình ấy Thiên Chúa xây kim tư tháp của lịch sử cứu độ và
lịch sử của dân Do thái là dân riêng Ngài chọn. Và công trình của Thiên Chúa càng
lên cao lại càng rộng mở mênh mông bát ngát như bầu trời.
Trong câu chuyện
cuộc đời tổ phụ Abraham Thiên Chúa luôn luôn là Đấng đưa ra sáng kiến, đề nghị, hướng
dẫn và truyền lệnh. Ngài gọi ông, và Abraham luôn thưa: ”Lậy Chúa, này con đây”. Đây
cũng lại là thái độ cầu nguyện. Trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa tín hữu cũng phải
luôn thưa: ”Lậy Chúa, này con đây”. Lời thưa đó cũng có nghĩa là ”Xin Chúa phán, này
tôi tở Chúa đang lắng nghe”, lắng nghe để hiểu biết ý muốn của Chúa và mau mắn làm
theo.
Chương 18 trình thuật chuyến Thiên Chúa viếng thăm Abraham dưới hình
của ba sứ giả. Đây là một thí dụ khác nữa cho thấy cuộc đối thoại thân tình giữa Thiên
Chúa và Abraham, tổ phụ dân Israel. Một cuộc đối thoại rất đẹp, vì hoa trái của nó
là người con nối dõi tông đường mà hai cụ già Abraham và Sara hằng mong đợi từ bao
năm nay. Cuộc đối thoại với Thiên Chúa luôn đem lại các hoa trái mà con người không
ngờ tới. Ở đây là Igiaác, nụ cười, niềm vui, sự ủi an và chồi lộc Thiên Chúa ban cho
hai thân cây già cỗi khô cằn, không còn nhựa sống và không sinh hoa trái được nữa
theo luật tự nhiên. Vì đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được.
Sau khi báo cho Abraham biết sang năm ông sẽ có con, Thiên Chúa cũng không muốn dấu
ông ý định của Ngài là đi đánh phạt dân chúng hai thành Sodoma và Gomorra, vì cuộc
sống dâm loạn và qúa bê tha tội lỗi của họ. Ở đây chúng ta tìm thấy vài khía cạnh
khác nữa của lời cầu nguyện: đó là lời cầu bầu của tổ phụ cho người ngay lành thánh
thiện cũng như cho kẻ tội lỗi. Abraham nài nẵng và mặc cả với Chúa để cứu những người
lành thánh, trong đó có ông Lót là cháu và gia đình ông. Abraham thưa với Chúa: “Chẳng
lẽ Ngài lại tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm
mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ
cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? Ngài làm như vậy chắc không được
đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ không
được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét cử công minh sao?” Đức Chúa đáp:
”Nếu Ta tìm được trong thành Sôđôma năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ
cho tất cả thành đó”.
Từ năm mươi người lành, Abraham giảm xuống dần chỉ còn
mười người. Nhưng Thiên Chúa cũng đã không tìm thấy mười người ngay lành thánh thiện
trong thành, nên Sôđôma và Gômora đã bị lửa diêm sinh từ trời rơi xuống thiêu rụi.
Cuộc đối thoại của tổ phụ Abraham với Thiên Chúa còn cho thấy hiệu năng của lời cầu
nguyện. Nó có thể cứu sống sinh mạng của những người tội lỗi nữa.
Tuy nhiên,
trong cuộc sống của tổ phụ Abraham còn có một biến cố thê thảm khác nữa: đó là khi
Thiên Chúa truyền cho Abraham sát tế Igiaác cho Ngài để thử lòng và để tôi luyện đức
tin của ông, như kể trong chương 22 sách Sáng Thế. Ở đây cuộc đối thoại của tổ phụ
Abraham với Thiên Chúa rất ngắn gọn. Thiên Chúa gọi, ông thưa ”Dạ, con đây”. Rồi Thiên
Chúa phán: ”Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Igiaác, hãy đi
đến xứ Morigia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho”
(St 22,1-2). Chúng ta có thể tưởng tượng ra nỗi khổ đau xâu xé nát lòng tổ phụ như
thế nào. Nhưng trình thuật cho thấy Abraham mau mắn thi hành đòi hỏi xem ra vô lý
và tàn ác của Thiên Chúa. Sáng hôm sau ông dậy sớm thắng lừa, đem theo hai đầy tớ
và con là Igiaác. Ông bổ củi để đốt lễ toàn thiêu rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa
bảo. Sang ngày thứ ba Abraham ngước mắt lên và thấy nơi tế lễ ở đàng xa. Ông dặn đầy
tớ: ”Các ngươi ở lại đây với con lừa, còn cha con ta đi lên tận đằng kia; chúng ta
làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các ngươi”. Tuy ông biết mình sẽ sát tế con,
nhưng vẫn xác tín rằng mình sẽ cùng con trở về với các đầy tớ. Ông lấy củi để đốt
lễ toàn thiêu đặt lên vai con. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. Khi
Igiaác hỏi ”có củi có lửa ở đây còn chiên làm lễ toàn thiêu ở đâu”, ông trả lời: ”Chiên
làm lễ toàn thiêu chính Thiên Chúa sẽ liệu con ạ”. Lên tới nơi, Abraham dựng bàn thờ,
xếp củi lên, trói Igiaác lại và đặt lên bàn thờ trên đống củi, rồi đưa tay ra cầm
lấy dao để sát tế con mình. Nhưng sứ thần của Chúa từ trời gọi ông: ”Abraham, Abraham”.
Ông thưa: ”Dạ, con đây”. Người nói: ”Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây
giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta con của ngươi, con một của
ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc”. Ông Abraham ngước mắt lên thì nhìn thấy phía sau có
con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông bắt lấy nó dâng làm lễ toàn thiêu thay
cho con mình.
Thật ra, Thiên Chúa chỉ muốn thử lòng tin của tổ phụ chứ không
muốn cái chết của người con mà chính Ngài đã ban cho ông. Điều Thiên Chúa muốn đó
là cái chết của chính cái ”tôi” của Abraham, của tâm thức con người trần gian. Abraham
phải sát tế nó, để có một đức tin mạnh mẽ tinh tuyền, hoàn toàn tín thác nơi Thiên
Chúa, bước vào trong cái luận lý của Thiên Chúa, nhìn mọi sự với cái nhìn của Thiên
Chúa. Thiên Chúa cần điều đó để biến ông trở thành tổ phụ của dân riêng Người chọn,
từ đó phát xuất ra Đấng Messia, Đầng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai, là Đức Giêsu Kitô dòng
dõi vua Đavít thuộc chi tộc Giuđa. Đó cũng là thứ đức tin mà Chúa Giêsu Kitô đòi hỏi
và chờ mong nơi các môn đệ và các kitô hữu.
Như thế, cuộc đời của tổ phụ Abraham
cho chúng ta thấy thái độ sống nòng cốt của tổ phụ là cầu nguyện đối thoại thân tình
với Thiên Chúa. Và hoa trái của lời cầu nguyện đó là tâm tình tin yêu phó thác, lắng
nghe, vâng phục, quảng đại và luôn sẵn sàng với Thiên Chúa, hoàn toàn để cho Chúa
định liệu những gì Ngài muốn trong cuộc đời mình, theo chương trình cứu độ của Ngài.